Nguồn của Thần Học Hệ Thống
18/03/2025
Tin lành có nghĩa là gì
25/03/2025
Nguồn của Thần Học Hệ Thống
18/03/2025
Tin lành có nghĩa là gì
25/03/2025

John Calvin về tính cần thiết của việc cải chánh Giáo hội

Hơn 450 năm trước, John Calvin nhận được một thỉnh cầu viết về bản chất và nhu cầu cải chánh trong giáo hội. Bối cảnh lúc đó rất khác so với hoàn cảnh đã truyền cảm hứng cho các tác phẩm khác của Calvin, và điều đó cho chúng ta thấy những khía cạnh khác trong sự biện hộ của ông về phong trào cải chánh. Hoàng đế Charles V đã triệu tập Quốc hội của Thánh chế La Mã họp tại thành phố Speyer vào năm 1544. Martin Bucer, nhà cải chánh vĩ đại của Strassburg, đã đề nghị Calvin soạn thảo một tuyên bố về các giáo lý và sự cần thiết của phong trào Cải chánh. Kết quả thật đáng kinh ngạc. Một người bạn và đồng thời là người kế nhiệm Calvin ở Geneva, Theodore Beza, đã gọi “Sự cần thiết của việc cải chánh giáo hội” là tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong thời đại của ông.

Calvin chia tác phẩm thành ba phần lớn. Phần đầu tập trung vào những tệ nạn trong hội thánh khiến việc cải chánh trở nên cần thiết. Phần thứ hai trình bày chi tiết những giải pháp mà các nhà cải chánh đưa ra để khắc phục những tệ nạn đó. Phần thứ ba giải thích lý do không thể trì hoãn cuộc cải chánh, mà ngược lại, tình hình lúc bấy giờ đòi hỏi phải có “sự sửa đổi ngay lập tức”.

Trong mỗi phần, Calvin tập trung vào bốn chủ đề, mà ông gọi là linh hồn và thân thể của hội thánh. Linh hồn của hội thánh là sự thờ phượng và sự cứu rỗi. Thân thể là các thánh lễ và quản trị hội thánh. Theo Calvin, lý do chính yếu của công cuộc cải chánh xoay quanh các chủ đề này. Các tệ nạn, biện pháp khắc phục và sự cần thiết phải hành động nhanh chóng đều liên quan đến sự thờ phượng, sự cứu rỗi, thánh lễ và quản trị hội thánh.

Theo Calvin, lý do chính yếu của công cuộc cải chánh xoay quanh các chủ đề này. Tầm quan trọng của những chủ đề này đối với Calvin được thể hiện rõ khi chúng ta nhận ra rằng ông không chỉ đơn thuần phản hồi các cuộc công kích trong bốn lĩnh vực này, mà chính ông đã xác định chúng là những khía cạnh cốt lõi của phong trào Cải chánh. Sự thờ phượng đúng đắn là mối quan tâm hàng đầu của Calvin.

Sự thờ phượng

Calvin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thờ phượng vì con người có xu hướng thờ phượng theo ý riêng thay vì theo ý muốn của Chúa. Ông nhấn mạnh rằng sự thờ phượng phải hoàn toàn tuân theo Lời Đức Chúa Trời: “Tôi hiểu rõ sự khó khăn khi cố gắng thuyết phục thế gian rằng Đức Chúa Trời không chấp nhận bất kỳ hình thức thờ phượng nào mà Lời Ngài không chuẩn y một cách rõ ràng. Quan niệm đối lập đã ăn sâu vào họ, đến mức họ tin chắc rằng bất kỳ hành động nào thể hiện lòng nhiệt thành vì vinh quang của Đức Chúa Trời đều là chính đáng. Tuy nhiên, nếu Đức Chúa Trời không chỉ xem đó là vô ích mà còn ghê tởm những gì con người tự ý thêm vào sự thờ phượng của Ngài trái với mệnh lệnh Ngài, thì chúng ta có thể đạt được gì khi làm ngược lại? Lời của Đức Chúa Trời rất rõ ràng và dút khoát, ‘Sự vâng lời tốt hơn của tế lễ.'” Sự xác tín này là một trong những lý do khiến cuộc cải chánh trở nên cần thiết. “Vì trong nhiều đoạn Kinh Thánh, Đức Chúa Trời nghiêm cấm mọi hình thức thờ phượng không được Ngài chấp nhận theo Lời Ngài. Ngài bày tỏ rằng Ngài vô cùng phẫn nộ trước những hành động tự ý tạo ra hình thức thờ phượng khác, đồng thời cảnh báo về những hình phạt nghiêm khắc. Chính vì vậy, cuộc cải chánh mà chúng tôi thực hiện là điều vô cùng cần thiết.” Theo tiêu chuẩn của Lời Đức Chúa Trời, Calvin kết luận về Giáo hội Công giáo La Mã rằng “toàn bộ hình thức thờ phượng thiêng liêng đang được thực hành phổ biến ngày nay chẳng khác gì sự băng hoại.”

Theo Calvin, sự thờ phượng trong hội thánh thời trung cổ đã biến thành một hình thức “thờ thần tượng nghiêm trọng.” Với ông, thờ thần tượng là một vấn đề cũng nghiêm trọng như việc cho rằng con người được xưng công chính bởi việc làm. Cả hai đều cho thấy con người đặt sự khôn ngoan của mình thay thế sự mặc khải thiêng thượng. Cả hai đều cho thấy sự thỏa hiệp chiều theo xu hướng của con người, thay vì tìm cách làm đẹp lòng và vâng phục Chúa. Calvin nhấn mạnh rằng không thể có sự hiệp nhất trong thờ phượng với những kẻ thờ thần tượng: “Tuy nhiên, có người sẽ lập luận rằng, dù các tiên tri và sứ đồ không đồng tình với những thầy tế lễ gian ác về giáo lý, họ vẫn cùng tham gia trong các buổi dâng tế lễ và cầu nguyện. Tôi thừa nhận điều đó đã xảy ra, miễn là họ không bị ép buộc tham gia vào sự thờ thần tượng. Nhưng có vị tiên tri nào trong Kinh Thánh từng dâng tế lễ tại Bê-tên không?”

Như các tiên tri ngày xưa, các nhà cải chánh phải chống lại sự thờ thần tượng và “vẻ bề ngoài” của việc thờ phượng trong thời đại của họ. Cách khắc phục sự phô trương của hội thánh thời Calvin là sự thờ phượng đơn sơ theo đường lối kính sợ Chúa — như được phản ánh trong trật tự thờ phượng Chúa của hội thánh Geneva. Sự đơn sơ như thế khuyến khích người thờ phượng Chúa bằng cả tâm trí và thể xác: “Vì trong khi những người thờ phượng chân thật được kêu gọi dâng lòng và trí cho Ngài, con người lại có xu hướng tạo ra những hình thức thờ phượng khác biệt, chủ yếu tập trung vào các nghi thức bên ngoài, trong khi tâm trí họ vẫn giữ riêng cho mình.”

Sự xưng công chính

Kế đó Calvin chuyển sang chủ đề xưng công chính. Tại đây, ông thừa nhận rằng đây là vấn đề gây tranh cãi gay gắt nhất: “Không có chủ đề nào bị phản đối quyết liệt hơn, và cũng không có điểm nào mà những người chống đối chúng ta kiên quyết phản bác hơn, ngoài vấn đề xưng công chính, cụ thể là, liệu con người được xưng công chính bởi đức tin hay bởi việc làm.” Giáo lý này đóng vai trò quyết định đối với “sự tồn vong của Hội Thánh” và chính những sai lầm liên quan đến giáo lý này đã khiến hội thánh chịu “một vết thương chí tử” và “bị đưa đến bờ vực diệt vong.”

Calvin khẳng định Sự xưng công chính duy bởi đức tin: “. . . chúng tôi xác quyết rằng, bất kể công đức của một người ra sao, người đó được Đức Chúa Trời xem là công chính hoàn toàn chỉ bởi ân điển được ban cho cách nhưng không; vì Đức Chúa Trời, không xét đến việc làm, chấp nhận người đó trong Đấng Christ, bằng cách quy kể sự công chính của Đấng Christ cho người ấy, như thể đó chính là sự công chính riêng của người ấy.”

Giáo lý này có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống và trải nghiệm của người Cơ Đốc: “. . . bằng cách khiến con người nhận thức tình trạng đáng thương và bất lực của mình, chúng tôi dạy họ sự khiêm nhường thật cách hiệu quả hơn, dẫn họ đến chỗ từ bỏ mọi sự tự tin vào bản thân và hoàn toàn phó thác nơi Đức Chúa Trời; tương tự, chúng tôi cũng hướng dẫn họ phát triển lòng biết ơn sâu sắc hơn, bằng cách giúp họ nhận thức rằng mọi điều tốt đẹp họ có được đều xuất phát từ ân điển và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời, vì đó là điều đúng đắn phải làm.”

Thánh lễ

Chủ đề thứ ba mà Calvin xem xét một cách chi tiết là các thánh lễ. Ông phê phán rằng “. . . những nghi thức do con người tạo ra được đặt ngang hàng với sự mầu nhiệm mà Đấng Chrsit đã thiết lập” và đặc biệt Tiệc Thánh đã biến thành một “màn trình diễn phô trương.” Sự xuyên tạc các thánh lễ của Chúa như thế là điều không thể chấp nhận. “Điều đầu tiên chúng tôi lên án ở đây là, dân sự bị cuốn vào những nghi lễ hào nhoáng trong khi ý nghĩa và chân lý về nó không hề được nhắc đến. Các thánh lễ không có giá trị gì nếu ý nghĩa thực sự của chúng không được giải thích cách rõ ràng phù hợp với lời Chúa.”

Calvin tiếc nuối rằng tính đơn sơ của giáo lý và thực hành thánh lễ từng được duy trì trong hội thánh đầu tiên nay đã không còn. Điều này được thể hiện rõ ràng nhất trong thánh lễ Tiệc Thánh. Xem tiệc thánh như một sự tái hy sinh, giáo lý biến thể và xem bánh và rượu đã được thánh hoá là đối tượng thờ phượng đều không có nền tảng Kinh Thánh và làm sai lệch ý nghĩa thực sự của thánh lễ. “Lẽ ra thánh lễ phải giúp tâm trí sốt sắng hướng về thiên đàng, nhưng các biểu tượng thiêng liêng của Tiệc Thánh đã bị lạm dụng cho một mục đích hoàn toàn khác, và con người chỉ dừng lại ở việc chiêm ngưỡng và thờ lạy chúng, mà không hề nhớ đến Đấng Christ.” Công tác của Đấng Christ bị làm sai lệch, như được thấy rõ trong ý tưởng về việc xem tiệc thánh như một sự tái hy sinh khi “… Đấng Christ phải hy sinh hàng ngàn lần mỗi ngày, như thể sự hy sinh một lần đủ cả của Ngài không đủ cho chúng ta.”

Calvin đã tóm tắt ý nghĩa thật của Tiệc Thánh một cách đơn giản: “. . . chúng tôi khuyên mọi người đến bằng đức tin… chúng tôi giảng dạy rằng thân và huyết của Đấng Christ được ban cho chúng ta trong Tiệc Thánh, và chúng ta đón nhận. Chúng tôi cũng không đơn thuần dạy rằng bánh và rượu là biểu tượng, mà không nhấn mạnh ngay rằng có một chân lý gắn liền với chúng và được thể hiện qua chúng.” Đấng Christ thực sự ban chính Ngài và mọi ơn cứu rỗi cho tất cả những ai tham dự lễ tiệc thánh bằng đức tin.

Tóm lược ngắn gọn này về lập luận của Calvin về các thánh lễ cho chúng ta một cái nhìn sơ lược về cách ông trình bày chủ đề quan trọng này. Ông tập trung nhiều vào phép báp-tem cũng như phản bác quan điểm của giáo hội Công giáo La Mã về năm loại thánh lễ khác.

Quản trị giáo hội

Cuối cùng, Calvin chuyển sang chủ đề về quản trị của giáo hội. Ông chỉ ra rằng đây có thể là một chủ đề rất rộng: “Nếu tôi phân tích từng sai sót trong việc quản trị giáo hội thì sẽ không bao giờ có kết thúc.” Ông tập trung vào tầm quan trọng của chức vụ mục sư. Đặc ân và trách nhiệm giảng dạy là trọng tâm của chức vụ này: “. . . Một người không thể là mục sư chân chính của hội thánh nếu không thi hành trách nhiệm vụ giảng dạy.” Một trong những thành tựu vĩ đại của cuộc Cải chánh là đưa việc giảng dạy trở lại vị trí xứng đáng trong đời sống của dân sự Đức Chúa Trời. “. . . mọi hội thánh của chúng tôi đều duy trì việc giảng dạy lời Chúa một cách thường xuyên.” Chức vụ mục sư phải gắn kết sự thánh khiết với việc giảng dạy: “… những người đứng đầu hội thánh phải nối bật hơn người khác và tỏa sáng bằng gương mẫu của một đời sống thánh khiết…”

Calvin lên án rằng, thay vì giảng dạy và đeo đuổi sự thánh khiết, giới lãnh đạo của giáo hội La Mã lại áp đặt “một sự chuyên chế tàn bạo” lên linh hồn của dân sự Đức Chúa Trời, tự nhận quyền lực và thẩm quyền mà Đức Chúa Trời không ban cho họ. Cuộc Cải chánh đã vinh quang giải phóng hội thánh khỏi việc bị trói buộc bởi những truyền thống không dựa trên Kinh Thánh. “Vì vậy, khi trách nhiệm của chúng tôi là giải phóng lương tâm của các tín hữu khỏi sự ràng buộc không chính đáng, chúng tôi đã dạy rằng họ được tự do, không bị áp đặt bởi luật lệ của con người, và rằng sự tự do này—được chuộc bằng huyết của Đấng Christ—không thể bị xâm phạm.”

Giáo hội La Mã đã đề cao sự kế thừa chức vụ sứ đồ, đặc biệt trong sự phong chức. Calvin nhấn mạnh rằng việc thụ phong theo cải chánh phù hợp với giáo lý và thực hành chân thật của Đấng Christ, của các sứ đồ và Hội thánh sơ khai. Ông nhận định, “Do đó, không ai có thể đòi quyền thụ phong khi không duy trì sự hiệp nhất của hội thánh bằng giáo lý thuần khiết.”

Cải chánh

Calvin khép lại luận thuyết này với một suy tư về tiến trình của cuộc cải chánh. Ông cho rằng cuộc cải chánh bắt đầu với Luther, người lên tiếng kêu gọi cải chánh “một cách ôn hòa”. Phản ứng từ La Mã là một nỗ lực “để dập tắt lẽ thật bằng bạo lực và tàn nhẫn.” Cuộc chiến này không khiến Calvin ngạc nhiên vì “. . . số phận của phúc âm, từ khởi đầu cho đến tận cùng, đã và sẽ luôn được rao giảng trong thế gian giữa muôn vào tranh cãi.”

Calvin giải thích rằng hội thánh đối diện những rắc rối này trong đời sống vì các vấn đề đang tranh cãi có vai trò quan trọng. Ông không cho phép giảm nhẹ thực tế rằng “toàn bộ bản chất của Cơ đốc giáo” đang bị đe dọa. Vì các nhà cải chánh hành động trong sự thuận phục Kinh Thánh, ông phản đối mọi ý kiến cho rằng họ là những người gây chia rẽ: “. . . điều quan trọng cần phải lưu ý trước tiên là phải cẩn thận, không tách rời Hội thánh khỏi Đấng Christ là đầu Hội thánh. Khi tôi nói Đấng Christ, tôi bao gồm giáo lý về phúc âm của Ngài, là điều Ngài đã xác nhận bằng chính huyết Ngài… Vì vậy, hãy xác định rằng, sự hiệp một thánh tồn tại giữa vòng chúng ta khi chúng ta đồng lòng trong giáo lý thuần khiết, và hiệp nhất chỉ duy trong Đấng Christ.” Không phải danh xưng hội thánh đem lại sự hiệp nhất, mà chính thực tại của hội thánh chân thật được vững vàng trong Lời Đức Chúa Trời.

Calvin tiếp tục với câu hỏi thực tiễn về ai là người có thể lãnh đạo công cuộc cải chánh trong hội thánh một cách đúng đắn. Ông bác bỏ ý tưởng cho rằng giáo hoàng có thể lãnh đạo hội thánh hoặc công cuộc cải chánh bằng những lời lẽ quyết liệt: “Tôi phủ nhận rằng Tòa thánh đó mang tính sứ đồ, vì tại đó chỉ thấy sự sa ngã nghiêm trọng—tôi phủ nhận ông là đại diện của Đấng Christ, người đang bức hại phúc âm một cách tàn nhẫn và qua hành động của mình chứng tỏ ông là kẻ chống lại Đấng Christ—tôi phủ nhận ông là người kế vị của Phi-e-rơ, người đang nỗ lực phá hủy điều Phi-e-rơ đã xây dựng và tôi phủ nhận ông là người đứng đầu Hội thánh, người làm tổn hại và chia rẽ hội thánh bằng sự bạo ngược của mình, sau khi tách  rời hội thánh khỏi Đấng Christ, Đấng làm đầu chân thật và duy nhất của hội thánh. Ông thấy rằng nhiều người kêu gọi tổ chức một hội nghị toàn cầu để giải quyết các vấn đề của hội thánh, nhưng ông lo ngại rằng hội nghị như thế sẽ không bao giờ được tổ chức và nếu có nó cũng sẽ chịu sự kiểm soát của giáo hoàng. Ông đề nghị rằng hội thánh nên theo gương mẫu truyền thống của hội thánh sơ khai và giải quyết vấn đề thông qua các hội đồng theo từng địa phương hoặc từng khu vực. Dù sao, công cuộc cải chánh cuối cùng phải được giao phó cho Đức Chúa Trời, Đấng ban phước theo ý Ngài, theo nhu cầu thực của từng nỗ lực cải chánh: “Thật vậy, chúng tôi mong muốn, như chúng tôi phải làm, rằng công tác của chúng tôi sẽ mang lại lợi ích cho thế gian,  nhưng việc làm được điều này là thuộc về Đức Chúa Trời, không phải của chúng tôi.”


Bài này từng được xuất bản bởi Tiến sĩ W. Robert Godfrey. Xem tại đây.

W. Robert Godfrey
W. Robert Godfrey
Tiến sĩ W. Robert Godfrey là chủ tịch hội đồng quản trị của Ligonier và cũng là chủ tịch danh dự và giáo sư danh dự về lịch sử hội thánh tại Chủng viện Westminster California. Ông là tác giả của nhiều sách, bao gồm Saving the Reformation và Learning to Love the Psalms.